Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Giáo dục đại học đang được Bộ Giáo dục và Ðào tạo soạn thảo và
chuẩn bị trình Chính phủ ban hành. Một trong những điểm mới của dự thảo
là quy định về việc kéo dài thời gian làm việc của giảng viên đại học
công lập.
Ðiều 12 của Dự thảo trên quy Ðịnh việc cho phép các cơ sở
đào tạo kéo dài thời gian làm việc đối với giảng viên đại học là tiến
sĩ, phó giáo sư, giáo sư trong các cơ sở đào tạo đại học công lập. Ðây
là một trong những chính sách mới phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tuy
nhiên, thủ tục xét kéo dài thời gian làm việc cho các đối tượng trên
đang là một vấn đề cần xem xét.
Vẫn mang nặng tính "xin-cho"
Theo
Ðiểm a, Khoản 4, Ðiều 12 của Dự thảo thì giảng viên có nhu cầu kéo dài
thời gian làm việc phải đăng ký bằng văn bản gửi đến thủ trưởng cơ sở
đào tạo. Như vậy, nếu một giảng viên có năng lực, đang còn sức cống hiến
và muốn tiếp tục cống hiến thì phải chủ động làm thủ tục đăng ký trong
khi việc sử dụng họ lại là nhu cầu của chính cơ sở đào tạo. Nếu không
đăng ký để "xin" thì coi như chính sách kéo dài thời gian làm việc không
áp dụng đối với họ. Ðiều đó thể hiện lối tư duy "có xin mới cho" của
các nhà làm chính sách từ trước đến nay, sẽ là rào cản lớn đối với việc
khuyến khích và khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình
phục vụ cho sự nghiệp giáo dục của đất nước.
Thiết nghĩ, quy định
theo lối "xin-cho" này cần phải được thay thế bởi một cơ chế khác phù
hợp hơn. Cụ thể, khi một giảng viên có trình độ, kinh nghiệm và thời
gian cống hiến tại một cơ sở đào tạo đại học công lập chuẩn bị về hưu
thì cơ sở đào tạo phải chủ động xem xét nhu cầu tiếp tục sử dụng giảng
viên và đề nghị với giảng viên nếu xét thấy cần thiết. Trong trường hợp
giảng viên chấp nhận việc kéo dài thời gian làm việc thì hai bên chỉ cần
cam kết bằng văn bản (hợp đồng) và trên cơ sở đó, cơ sở đào tạo ra
quyết định kéo dài thời gian làm việc cho giảng viên. Cơ chế này vừa đặt
ra trách nhiệm của cơ sở đào tạo trong việc chủ động xác định nhu cầu
về nguồn nhân lực của mình vừa thể hiện nét đẹp văn hóa trong việc trọng
dụng, khuyến khích nhân tài, nhất là những người đã cống hiến cho chính
cơ sở đào tạo đó, đồng thời sẽ tránh được sự lạm dụng "thủ tục hành
chính" hay hành chính hóa các quan hệ, giao dịch mang bản chất dân sự
như chúng ta vẫn thường thấy.
Thiếu sự rõ ràng, minh bạch
Như
đã đề cập ở trên, Dự thảo yêu cầu giảng viên phải làm văn bản đăng ký,
nếu có nhu cầu kéo dài thời gian làm việc, nhưng việc đăng ký này cần
thực hiện khi nào, với thời hạn cụ thể ra sao (trước hay sau khi có
quyết định về hưu); nội dung đăng ký cần có những thông tin gì... đều
không được quy định cụ thể. Bên cạnh đó, quy trình xem xét và ra quyết
định kéo dài thời gian làm việc cho giảng viên của các cấp có thẩm quyền
cũng thiếu sự minh bạch (Ðiểm b, Khoản 4, Ðiều 12). Cụ thể thời hạn
thực hiện việc xem xét kể từ khi nhận được đăng ký của đối tượng; thời
hạn ban hành quyết định hoặc thông báo cho đối tượng (trường hợp cơ sở
đào tạo không có nhu cầu tiếp tục kéo dài thời gian làm việc của đối
tượng) không hề được Dự thảo đề cập.
Với việc quy định như trên
đã làm cho thủ tục xét kéo dài thời gian làm việc của giảng viên, một
quy trình tưởng chừng như rất rõ ràng và không mấy khó khăn ở các cơ sở
đào tạo đại học công lập trở nên mơ hồ, thiếu minh bạch và khó khả thi.
Ngoài ra, với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo
đại học như hiện nay, việc quy định trách nhiệm báo cáo của cơ sở đào
tạo với cơ quan quản lý trước khi ra quyết định kéo dài thời gian làm
việc của giảng viên (Ðiểm c, Khoản 4, Ðiều 12) là không hợp lý, đồng
thời cũng làm phát sinh thêm thủ tục hành chính không cần thiết, gây khó
khăn cho các cơ sở đào tạo trong việc tự chủ về con người, tổ chức bộ
máy và chất lượng đào tạo.
Về nguyên lý, đối với hầu hết các
chính sách kinh tế - xã hội, thủ tục hành chính là công cụ để vận hành
chính sách, đưa chính sách vào cuộc sống. Tuy nhiên, nếu không có một tư
duy đổi mới, cải cách và đặt mục tiêu phục vụ xã hội lên trên hết thì
việc quy định thủ tục hành chính nhiều khi lại tạo ra rào cản, là điểm
nghẽn của chính sách. "Câu chuyện" về khuyến khích việc sử dụng nhân tài
thông qua việc cho phép kéo dài thời gian làm việc của các giảng viên
là tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư trong các cơ sở đào tạo đại học công
lập nói trên là một thí dụ. Liên hệ với các cơ sở đào tạo ngoài công
lập, việc kéo dài thời gian làm việc này đơn thuần chỉ là một giao dịch
dân sự. Với cơ sở đào tạo đại học công lập, cho dù có những đặc thù
nhưng các cơ quan chức năng cần có cách tiếp cận mang tính đổi mới, hạn
chế cơ chế "xin-cho", đặc biệt đối với chính sách sử dụng nhân tài ở
Việt Nam hiện nay.
Với những phân tích trên, theo quan điểm của
chúng tôi, việc quy định thủ tục hành chính xét kéo dài thời gian làm
việc của giảng viên đại học công lập như theo Dự thảo Nghị định hiện nay
vừa không cần thiết, vừa thiếu sự minh bạch, rõ ràng. "Cơn khát" nhân
tài của nền giáo dục Việt Nam sẽ tiếp tục, nếu trong thực tế vẫn tồn tại
những cách nghĩ, cơ chế "xin-cho" như trong Dự thảo trên và sẽ tạo nên
những rào cản pháp lý cho sự nghiệp phát triển giáo dục nói riêng và sự
phát triển xã hội nói chung.